BITLOCKER DRIVE ENCRYPTION

Một trong những tính năng bảo mật mới của Windows Server 2008, đó chính là tính năng mã hóa ổ đĩa hay còn được gọi là BitLocker Drive Encryption. BitLocker cung cấp tính năng bảo mật dữ liệu rất cao, máy tính của bạn sẽ không thể khởi động nếu không có key giải mã. Do đó, giả sử như bạn bị mất dữ liệu hoặc dữ liệu của bạn bị đánh cắp, thì hacker cũng sẽ không xem được nội dung

BITLOCKER DRIVE ENCRYPTION

Bài viết bao gồm các bước:

1. Hướng dẫn chia partition khi cài Windows Server 2008

2. Cài đặt BitLocker Drive Encryption

3. Mở tính năng BitLocker Drive Encryption trên máy không có chip TPM

Xem chi tiết tại đây

UPGRADE WINDOWS SERVER 2003 ACTIVE DIRECTORY TO WINDOWS SERVER 2008 ACTIVE DIRECTORY

Hiện tại ta đang quản lý hệ thống Active Directory trên nền Windows Server 2003, công ty đang có nhu cầu nâng cấp hệ thống lên Windows Server 2008 và phải giữ nguyên các tài nguyên của hệ thống Active Directory hiện thời như: Users, Group, GPO,Permission….

Giải pháp tối ưu nhất hiện nay chính là “Upgrade Windows Server 2003 Active Directory to Windows Server 2008 Active Directory”.

Nội dung của bài lab sẽ trình bày cách nâng cấp hệ thống Active Directory từ Windows Server 2003 lên Windows Server 2008.

Bài lab bao gồm các bước:

1. Kiểm tra Active Directory trước khi nâng cấp

2. Nâng cấp Domain Functional Level

3. Mở rộng Active Directory Schema

4. Nâng cấp Windows Server 2008

5. Cài đặt Group Policy Management

6. Kiểm tra sau khi nâng cấp

Xem chi tiết tại đây

Forever And One

Download

 

Forever And One

What can I do?
Will I be getting through?
Now that I must try to leave it all behind
Did you see what you have done to me?
So hard to justify
Slowly it’s passing by

Forever and one
I will miss you
However, I kiss you
Yet again
Way down in Neverland
So hard I was trying
Tomorrow I’ll still be crying
How could you hide your lies
Your lies

Here I am
Seeing you once again
My mind’s so far away
My heart’s so close to stay
Too proud to fight
I’m walking back into night
Will I ever find someone to believe?

MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI

Anh có thể làm gì được đây
Liệu có thể vượt qua được chăng ?
chỉ biết bây giờ phải cố bỏ lại mọi thứ sau lưng
em có nhìn thấy những gì em gây ra cho anh hay không ?
thật khó để vượt qua tất cả
Và mọi thứ trôi qua thật chậm chạp .

mãi mãi chỉ một người ,
Anh ssẽ luôn nhớ đến em
Dù nụ hôn ta chưa hề trao thêm một lần nào nữa
Trên con đường về Miền Vĩnh Cửu
Anh đã rất cố gắng
Nhưng ngày mai nước mắt anh vẫn lăn dài
Làm sao em có thể che giấu
những lời dối trá.

Anh ngồi đây
nhìn em lần cuối
Bởi trong anh tất cả đã xa xôi lắm rồi
Trái tim anh đóng chặt để làm nơi nướng náu
anh phải chấp nhận
Anh trở lại trong đêm tối,
liệu anh sẽ tìm được ai để tin tưởng ?

Forever_and_One

"Hạnh phúc là cái cho đi để mang lại hạnh phúc cho người khác. Và ta sẽ thực sự cảm thấy điều đó khi nhìn thấy người ta yêu thương được hạnh phúc ".Tôi không tin rằng tình yêu là thứ tình cảm vị kỷ, bởi vì tình yêu là tình cảm mà người này dành cho người kia bằng tất cả tấm lòng và sự tin yêu chứ nó không thể là sự vị kỷ, áp đặt tình cảm lên nhau được. Tình yêu mà chỉ cần đến YÊU thôi thì có lẽ không toàn vẹn,với tôi có lẽ cần đến " ba phần YÊU " _ " hai phần THƯƠNG " _ một chữ nghĩa và một chữ tình mới đủ để người ta hy sinh và tha thứ bao dung cho nhau trong suốt cuộc đời. Ngày xưa mỗi lần nghe đến " Forever and one" , có lẽ tôi không đủ lớn để có thể hiểu hết những tâm sự trong đó, cả không đủ lớn để hiểu về cái gọi là tình yêu . Thế nên mỗi lần nghe đến bài này , tôi chỉ có thể mơ hồ cảm thấy một sự xót xa, một nỗi đau day dứt ẩn sau mỗi nốt nhac vang lên. Cả những từ mà tôi nghe thấy chỉ là chữ được chữ mất đã không làm tôi hiểu hết được những gì người ca sĩ truyền tải đến. Có chăng trong tôi lúc đó chỉ đủ sức cảm nhận một nỗi đau đang oằn mình bên trong mà thôi.

"What can I do ?
Will I be getting throught ?
Now that I much try to leave it all behind…"

Thật là khó khăn khi bỗng chốc mọi thứ đều thay đổi…khi những thương yêu mà chàng trai những tưởng sẽ tồn tại mãi mãi bỗng chốc lại tan vỡ vì sự ra đi đột ngột của cô gái…không một lời giải thích, không một lý do…" Anh còn có thể làm được gì ? Rồi cũng sẽ vượt qua được mọi thứ chăng ? Giờ đây , có lẽ anh phải cố gắng để tất cả lại đằng sau …" Bỏ lại những tháng ngày êm đềm , bỏ lại những kỷ niệm đã một thời từng nâng niu, từng trân trong để đối diện với những sự thật trước mắt , đối diện với những tan vỡ mà có lẽ chàng trai không hề muốn xảy ra…

"…Did you see what you have done to me?
So hard to justify
Slowly it’s passing by…"

Nếu cho rằng khi một tình yêu sâu nặng bị tổn thương sẽ dễ dàng biến thành lòng hận thù tôi e là đó là tình cảm vị kỷ trong tình yêu mà thôi, đó là một thứ tình yêu ích kỷ và mù quáng bởi chính bàn thân họ. Tôi cho rằng khi tình yêu đã không còn thì đừng nên níu kéo tất cả lại… níu kéo để làm gì khi ngươi ta không còn dành cho mình chút tình cảm nào. Đừng làm cho người ra đi phải mang cảm giác có lỗi vì đã hết yêu thương, đừng oán trách nhau bằng những lời trách móc , những lời làm tổn thương nhau…Bởi nếu trong bạn còn tình yêu với người kia thì sẽ chẳng lấy làm sung sướng gì khi làm cho người đó đau khổ, làm cho người đó đem theo mặc cảm tội lỗi đã ruồng bỏ bạn…Tình yêu đã hết thì không thể níu kéo bằng sự ích kỷ của một trong hai người được…Không một lời trách móc nặng nhẹ chỉ là một câu hỏi cũng đủ để cô gái nhận ra cô là người có lỗi, nhưng không vì thế mà chàng trai lại đang tâm đổ xuống cô tất cả . Cố tìm một lời biện minh cho kẻ ra đi, cố tìm lấy một lý do để có thể tự nhủ cho những hành động của cô gái. Xét đến cùng chàng trai vẫn còn yêu cô cơ mà, thế thì làm sao chàng có thể nhìn thấy nàng đau khổ được, dù cho người nàng yêu lúc này không còn là chàng nữa, dù cho cái tình yêu của nàng đối với chàng đã hết, thì có nghĩa gì đâu, bởi dù sao nó cũng đã là tình cảm một thời của hai người. Có lẽ sẽ đau khi nhìn thấy nàng rời bỏ mình để ra đi, nhưng tình yêu của chàng trai là mong mỏi cho cô gái được hạnh phúc kia mà, dù là hạn phúc bên một kẻ nào đó không phải là chàng thì … chỉ cần nhìn thấy nàng hạnh phúc có lẽ cũng đủ làm chàng thấy ấm lòng rồi.

"…Forever and one I will miss you
However, I kiss you yet again
Way down in Neverland…"

" Mãi mãi không hề đổi thay…anh sẽ luôn nhớ đến em …Dù rằng nụ hôn ta chưa hề trao nhau thêm một lần nào nữa … Trên con đường về Neverland …"Càng cố gắng xua đi hình bóng của nàng, những ký ức ngọt ngào vẫn nào buông tha, kỷ niệm êm đềm quá , mong manh quá nên bây giờ đã vỡ tan… Nhìn thực tại, phủ nhận thực tai bằng những hình ảnh ngày xưa nay đã không thể còn có nữa… Chàng trai đã không thế làm hoen mờ mối tình của mình bằng những lời cay đắng, mà là những hình ảnh đẹp đẽ, nhưng cũng vì thế nó càng mang lại cay đắng, buồn thương mỗi lần quá khứ xưa hiện về… Vỡ oà … trong đáy mắt của kẻ ở lại…

"…So hard I was trying
Tomorrow I’ll still be crying
How could you hide your lies
Your lies…"

"Thật là khó khăn anh cũng phải cố … cố gằng gượng dậy.Dù cho ngày mai nước mắt vẫn còn thấm đẫm… lăn dài… Làm sao em có thể che dấu những lời dối trá…" Đến bây giờ đây tâm trạng mới vỡ oà, mới được bọc bạch, chàng trai chỉ có thể trách nàng đã không thể nói lên với chang sự thật, chàng không trách nàng tình yêu đã hết, chỉ trách sao nàng không một lần thẳng thắng với nhau…Để giờ này chàng bỗng chốc nhận ra thì mọi thứ đều đột ngột đổi thay…Khi tình yêu đã hết nàng không nên che dấu bằng mặc cảm tội lỗi, không nên dối trá nhau để cố gắng yêu thương…Có lẽ chàng trách nàng đã không đủ dũng khí khi nói lên sự thật, để đến giờ này tất cả là thương mang… Chàng sẽ chẳng ích kỷ đến nỗi níu léo tình yêu trong cô khi tất cả đều không còn, khi tất cả đều lụi tàn, thì làm sao có thể cứu vãn nỗi…

"…Here I am
Seeing you once again
My mind’s so far away
My heart’s so close to stay
Too proud to fight
I’m walking back into night
Will I ever find someone to believe?"

" Đây là lần cuối anh nhìn em, một lần sau cuối rồi thôi… Bởi trong anh tất cả đã xa xôi lắm rồi, trái tim anh đã quá đóng chặt… để có thể là nơi nương náu …" ."Chấp nhận những tình cảm đã đổi thay, chấp nhận rằng anh mất em, chấp nhận chẳng còn gì nữa giữa hai ta, anh đành phải tự tìm cho mình một nơi để có thể tự chữa lành vết thương lòng… Bây giờ mọi thứ có lẽ đều quá khó khăn đối với anh . Thế nên chàng trai chỉ còn có thể mong thời gian sẽ chữa lành tất cả…Cuộc sống sẽ vẫn cứ êm trôi , những đau thương nằm lại ở quá khứ…phía trước mong một ngày nào đó khi bình tâm trở lại, chàng trai lại có thể tiếp tục những ngày tháng dài ở tương lai, xua đi những u ám , buồn khổ đằng sau. .." Tìm lại cho chính mình một niềm tin đã đánh mất".

SQL Server Beta Exams Extended, Open Invitation

Đến hẹn lại lên, vào tháng 7 này MICROSOFT lại cho thi 2 môn beta của SQL : SQL Server 2008 DBA 71-432 và SQL Server 2008 BI 71-448.

sql2k8

– 71-432: TS: Microsoft SQL Server 2008, Implementation and Maintenance counts as credit towards the following certification(s).

Promo code 943F6

– 71-448: TS: Microsoft SQL Server 2008, Business Intelligence Development and Maintenance counts as credit towards the following certification(s).

Promo code B6543

Prometric: http://www.register.prometric.com/ClientInformation.asp

Flash Video Files (.flv) and IIS

Sau định dạng .SWF (Shockwave Flash) là định dạng .FLV (Flash Video) ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên với một Server Windows sử dụng IIS thì mặc định chỉ hiểu và hiển thị .SWF chứ không hiểu .FLV, muốn trang web xuất được định dạng này bạn cần phải khai báo MIME (Multipurpose Internet Mail Extensions) trong IIS.

– Chọn site cần cấu hình, R.Click chọn "Properties"

– Bên dưới tab HTTP Headers, chọn "File Types"

– Trong File Types chọn "New Type" và khai báo :

+ Associated extension : .flv

+ Content type (MINE) : video/x-flv

– Restart lại IIS.

Bạn có thể khai báo các loại MINE khác, tham khảo tại đây

TECHED 2008 ngày hội công nghệ Microsoft đang chờ bạn

TECH•ED SEA 2008

Tech_ED

GIỚI THIỆU VỀ TECH•ED

Tech•Ed là cuộc hội ngộ lớn nhất của Microsoft dành cho những Developer và chuyên gia IT toàn cầu, mang lại những hỗ trợ về kỹ thuật công nghệ cho giáo dục, cộng đồng, và tài nguyên đánh giá sản phẩm, kết quả. Đây là cơ hội tốt nhất hàng năm để được gặp gỡ đông đảo những người hoạt động trong lĩnh vực công nghệ giống và khác nhau. Tech•Ed quan tâm đến chiều rộng và độ sâu: tiếp cận sâu công nghệ và mở rộng kiến thức từ hơn 14 tracks công nghệ với hơn 100 sessions chi tiết, cụ thể. Tech•Ed liên quan đến cộng đồng và cá nhân. Đến với Tech•Ed bạn có cơ hội gặp gỡ hàng ngàn chuyên gia, hàng ngàn ý kiến để thảo luận. Đến với Tech Ed ngay lập tức bạn sẽ nhận ra tại sao nó lại thu hút nhiều người tham gia nhất. Tech•Ed là phản xạ và hành động. Tech•Ed tạo cơ hội để đánh giá sản phẩm của cả MS và hơn 250 đối tác chính. Có nhiều hơn 120 lab thực nghiệm: Hands-on lab và Instructor-Led lab (lab có giáo viên hướng dẫn)

Tech•Ed dựa trên các phân tích và nguyên vọng. Nó có khả năng chứng minh rằng công nghệ có thể mang các Developer và các chuyên gia IT đến một level cao hơn trên con đường sự nghiệp của họ.

Tham gia vào Tech Ed bạn sẽ có cơ hội được tư vấn bởi các chuyên gia hàng đầu của Microsoft, các đối tác, các nhà cung cấp, phân phối về các công cụ, công nghệ mới nhất, phiên bản hiện hành và tương lai. Do đó bạn không những có cơ hội giải quyết vấn đề của mình mà còn kiểm soát được môi trường IT.

Ngày hội công nghệ Microsoft Tech•Ed khu vực đông nam á năm 2008 sẽ diễn ra vào 11-14 tháng 8 tại Kuala Lumpur Convention Centre, Kuala Lumpur, Malaysia !

THÀNH PHẦN THAM DỰ

Tech•Ed là hội thảo dành cho những người yêu công nghệ: chuyên gia/chuyên viên IT, lập trình viên, kiến trúc sư phần mềm, người ra các quyết định kỹ thuật và tất cả các lĩnh vực giữa các ngành này này. Với hơn 100 sessions cụ thể, Tech•Ed SEA 2008 mang đến các công cụ, thông tin, và các tài nguyên cho các chuyên gia công nghệ để học cách tạo ra tác động trực tiếp

Tech_ED2

Tech•Ed nhận thấy nhu cầu và động lực của các chuyên viên IT và lập trình viên, khả năng đạt tới Dynamic IT, mở rộng tiềm năng trong chuyên môn và công việc kinh doanh.

BẠN CÓ NÊN THAM DỰ TECH•ED 2008

Trước hết, nó mở rộng vốn kiến thức của bạn về công nghệ hiện tại và công nghệ mới. Hơn nữa, khi tham gia bạn có cơ hội tương tác trực tiếp với các chuyên gia công nghệ của MS, và có thêm bạn bè trong lĩnh vực mạng và công nghệ

Mục tiêu của Tech Ed đối với Developers là giúp họ xây dựng các giải pháp phần mềm tốt cho kinh doanh

Mục tiêu của Tech Ed đối với IT Professionals là giúp họ lập kế hoạch, tạo ra kiến trúc hệ thống mạng, triển khai, quản lý và đảm bảo an ninh cho cơ sở hạ tầng công nghệ (hệ thống mạng).

Nội dung học của cả IT và Developer sẽ tập trung vào các sản phẩm, công nghệ có liên quan đã có Community Technology Preview và các công nghệ sẽ tung ra thị trường trước Tech•Ed kế tiếp

Với nền tảng được đào tạo từ Tech•Ed 2008 – “Be a part of the experience”, bạn sẽ trở thành một phần của cộng đồng công nghệ, và có tiềm năng phát triển nghề nghiệp.

Ngoài ra còn những lợi ích khác được đề cập ở phần giới thiệu Tech•Ed

MỘT VÀI HÌNH ẢNH VỀ TECH•ED

 Tech_ED3 Tech_ED4

TỔNG QUAN VỀ IPv6 (IPv6 Overview)

I- GIỚI THIỆU CHUNG

Hệ thống địa chỉ IPv4 hiện nay không có sự thay đổi về cơ bản kể từ RFC 791 phát hành 1981. Qua thời gian sử dụng cho đến nay đã phát sinh các yếu tố như :

– Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống Internet dẫn đến sự cạn kiệt về địa chỉ Ipv4

– Nhu cầu về phương thức cấu hình một cách đơn giản

– Nhu cầu về Security ở IP-Level

– Nhu cầu hỗ trợ về thông tin vận chuyển dữ liệu thơi gian thực (Real time Delivery of Data) còn gọi là Quality of Service (QoS)

– …

Dựa trên các nhược điểm bộc lộ kể trên, hệ thống IPv6 hay còn gọi là IPng (Next Generation : thế hệ kế tiếp) được xây dựng với các điểm chính như sau :

1- Đinh dạng phần Header của các gói tin theo dạng mới

Các gói tin sử dụng Ipv6 (Ipv6 Packet) có cấu trúc phần Header thay đổi nhằm tăng cương tính hiệu quả sử dụng thông qua việc dời các vùng (field) thông tin không cần thiết (non-essensial) và tùy chọn (Optional) vào vùng mở rộng (Extension Header Field)

2- Cung cấp không gian địa chỉ rộng lớn hơn

3- Cung cấp giải pháp định tuyến (Routing) và định vị địa chỉ (Addressing) hiệu quả hơn

-Phương thức cấu hình Host đơn giản và tự động ngay cả khi có hoặc không có DHCP Server

(stateful / stateless Host Configuration)

4- Cung cấp sẵn thành phần Security (Built-in Security)

5- Hỗ trợ giải pháp Chuyển giao Ưu tiên (Prioritized Delivery) trong Routing

6- Cung cấp Protocol mới trong việc tương tác giữa các Điểm kết nối (Nodes )

7- Có khả năng mở rộng dễ dàng thông qua việc cho phép tạo thêm Header ngay sau Ipv6 Packet Header

 

II- ĐỊA CHỈ IPv6

1- Không gian địa chỉ IPv6

Địa chỉ IPv6 (IPv6 Adddress) với 128 bits địa chỉ cung cấp khối lượng tương đương số thập phân là

2128 hoặc 340,282,366,920,938,463,463,374,607,431,768,211,456 địa chỉ

so với IPv4 với 32 bits địa chỉ cugn cấp khối lượng tương đương số thập phân là

232 hoặc 4,294,967,296 địa chỉ

 

2-Hình thức trình bày

IPv6 Address gồm 8 nhóm, mỗi nhóm 16 bits được biểu diển dạng số Thập lục phân (Hexa-Decimal)

Vd-1 : 2001:0DB8:0000:2F3B:02AA:00FF:FE28:9C5A

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Co thể đơn giản hóa với quy tắc sau :

– Cho phép bỏ các số không (0) nằm phía trước trong mỗi nhóm

– Thay bằng 1 số 0 cho nhóm có giá trị bằng không

– Thay bằng :: cho các nhóm liên tiếp có giá trị bằng không

Như vậy địa chỉ ở Vd-1 có thể viết lại như sau :

Vd-2 : 2001:DB8:0:2F3B:2AA:FF:FE28:9C5A

Vd-3 : địa chỉ = FE80:0:0:0:2AA:FF:FE9A:4CA2

Có thể viết lại = FE80::2AA:FF:FE9A:4CA2

(*) Lưu ý : phần Giá trị đầu (Prefix) được xác định bởi Subnet Mask IPv6 tương tự IPv4

Vd-4 : 21DA:D3::/48 có Prefix = 21DA:D3:0 (48 bits)

hoặc 21DA:D3:0:2F3B::/64 có Prefix = 21DA:D3:0:2F3B ( 64 bits)

 

Chú thích :

Để không bị bỡ ngỡ, chúng ta nên lưu ý về một số khái niệm trước khi nói về địa chỉ của IPv6 Host

a) Link-Local : khái niệm chí về các Host kết nối cùng hệ thống thiết bị vật lý (tạm hiểu Hub, Switch)

b) Site-Local : khái niệm chỉ về các Host kết nối cùng Site

c) Node : điểm kết nối vào mạng (tạm hiểu là Network Adapter). Mỗi Node sẽ có nhiều IPv6 Address cần thiết (Interface Address) dùng cho các phạm vi (Scope), trạng thái (State), vận chuyển (Tunnel) khác nhau thay vì chỉ có 1 địa chỉ cần thiết như IPv4

d) Do vậy khi cài đặt IPv6 Protocol trên một Host, mỗi Network Adapter sẽ có nhiều IPv6 Address gán cho các Interface khác nhau

3-Các loại IPv6 Address

a- Unicast

Unicast Address dùng để định vị một Interface trong phạm vi các Unicast Address. Gói tin (Packet) có đích đến là Unicast Address sẽ thông qua Routing để chuyển đến 1 Interface duy nhất

b- Multicast

Multicast Address dùng để định vị nhiều Interfaces. Packet có đích đến là Multicast Address sẽ thông qua Routing để chuyển đến tất cả các Interfaces có cùng Multicast Address

c-Anycast

Anycast Address dùng để định vị nhiều Interfaces. Tuy vậy, Packet có đích đến là Anycast Address sẽ thông qua Routing để chuyển đến một Interfaces trong số các Interface có cùng Anycast Address, thông thường là Interface gần nhất (khái niệm Gần ở đây được tính theo khoảng cách Routing)

Trong các trường hợp nêu trên, IPv6 Address được cấp cho Interface chứ không phải Node, một Node có thể được định vị bởi một trong số các Interface Address

IPv6 không có dạng Broadcast, các dạng Broadcast trong IPv4 được xem như tương đương Multicast trong Ipv6

 

4-Các loại IPv6 – Unicast Address

IPv6 Unicast Address gồm các loại :

· Global unicast addresses

· Link-local addresses

· Site-local addresses

· Unique local IPv6 unicast addresses

· Special addresses

a-Global unicast addresses (GUA)

GUA là địa chỉ IPv6 Internet (tương tự Public IPv4 Address). Phạm vi định vị của GUA là tòan bộ hệ thống IPv6 Internet (RFC 3587)

clip_image002

001 : 3 bits đầu luôn có giá trị = 001 nhị phân (Binary – bin) (Prefix = 001 /3)

Global Routing Prefix : gồm 45 bits. Là địa chỉ được cấp cho một tổ chức, Công ty / Cơ quan ..(Organization) khi đăng ký IPv6 Internet Address (Public IP)

Subnet ID : gồm 16 bits. Là địa chỉ tự cấp trong tổ chức để tạo các Subnets

Interface ID : gồm 64 bits. Là địa chỉ của Interface trong Subnet

Có thể đơn giản hóa thành dạng như sau (Global Routing Prefix = 48 bits)

clip_image004

 

(*) Các địa chỉ Unicast trong nội bộ (Local Use Unicast Address) : gồm 2 loại :

Link-Local Addresses : gồm các địa chỉ dùng cho các Host trong cùng Link và Neighbor Discovery Process (quy trình xác định các Nodes trong cùng Link)

Site-Local Addresses : gồm các địa chỉ dùng để các Nodes trong cùng Site liên lạc với nhau

b-Link-local addresses (LLA)

LLA là địa chỉ IPv6 dùng cho các Nodes trong cùng Link liên lạc với nhau (tương tự các địa chỉ IPv4 = 169.254.X.X). Phạm vi sử dụng của LLA là trong cùng Link (do vậy có thể bị trùng lặp trong các Link)

Khi dùng HĐH Windows, LLA được cấp tự động với cấu trúc như sau :

clip_image006

64 bits đầu = FE80 là giá trị cố định (Prefix = FE80 :: / 64)

Interface ID = gồm 64 bits . Kết hợp với Physical Address của Netwoprk Adapter (nói ở phần sau)

c-Site-local addresses (SLA)

SLA tương tự các địa chỉ Private IPv4 (10.X.X.X, 172.16.X.X, 192.168.X.X) được sử dụng trong hệ thống nội bộ (Intranet). Phạm vi sử dụng SLA là trong cùng Site.

(*) Site : là khái niệm để chỉ một phần của hệ thống mạng tại các tọa độ địa lý khác nhau

clip_image008

1111 1110 11 = 10 bits đầu là giá trị cố định (Prefix = FEC0 /10)

Subnet ID : gồm 54 bits dùng để xác địng các Subnets trong cùng Site

Interface ID : gồm 64 bits. Là địa chỉ của Interfaces trong Subnet

 

(*) Chú thích

Với cấu trúc như trình bày ở phần trên, các Local Use Unicast Address (Link-local, Site Local) có thể bị trùng lặp (trong các Link khác, Site khác). Do vậy khi sử dụng các Local Use Unicast Addresss có 1 thông số định vị được thêm vào (Additional Identifier) gọi là Zone_ID với cú pháp :

Address%Zone_ID

Vd-5 : ping fe80::2b0:d0ff:fee9:4143%3 Zone_ID = %3. Trong đó :

Address = Local-Use Address (Link-Local / Site-Local)

Zone ID = giá trị nguyên, giá trị tương tương đối (so với Host) xác định Link hoặc Site.

Trong các Windows-Based IPv6 Host, Zone ID được xác định như sau :

+ Đối với Link-Local Address (LLA) : Zobe ID là số thứ tự của Interface (trong Host) kết nối với Link. Có thể xem bằng lệnh : netsh interface ipv6 show interface

+ Đối với Site-Local Address (SLA) : Zone ID là Site ID, được gán cho Site trong Organization. Đối với các Organization chỉ có 1 Site, Zone ID = Site ID = 1 và có thể xem bằng lệnh :  netsh interface ipv6 show address level=verbose

d-Unique- local addresses (ULA)

Đối với các Organization có nhiều Sites, Prefix của SLA có thể bị trùng lặp. Có thể thay thể SLA bằng ULA (RFC 4193), ULA là địa chỉ duy nhất của một Host trong hệ thống có nhiều Sites với cấu trúc:

clip_image010

111 110 : 7 bits đầu là giá trị cố định FC00/7. L=0 : Local à Prefix =FC00 /8

Glocal ID : địa chỉ Site (Site ID). Có thể gán tùy ý

Subnet ID : địa chỉ Subnet trong Site

Với cấu trúc này, ULA sẽ tương tự GUA và khác nhau ở phần Prefix như sau :

clip_image012

e- Các địa chỉ đặc biệt (Special addresses)

Các địa chỉ đặc biệt trong IPv6 gồm :

0:0:0:0:0:0:0:0 : địa chỉ không xác định (Unspecified address)

0:0:0:0:0:0:0:1 : địa chỉ Loopback (tương đương IPv4 127.0.0.1)

IPv4-Cpompatible Address (IPv4CA) :

Format : 0:0:0:0:0:0:w.x.y.z Trong đó w,x,y,z là các IPv4 Address

Vd : 0:0:0:0:0:0:0:192.168.1.2

IPv4CA là địa chỉ tương thích của một IPv4/IPv6 Node. Khi sử dụng IPv4CA như một IPv6 Destination, gói tin sẽ được đóng gói (Packet) với IPv4 Header để truyền trong môi trường IPv4

IPv4-mapped address (IPv4MA)

Format : 0:0:0:0:0:FFFF:w.x.y.z (::FFFF:w.x.y.z) Trong đó w,x,y,z là các IPv4 Address

Vd : 0:0:0:0:0:FFFF:192.168.1.2

IPv4MA là địa chỉ của một IPv4 Only Node đối với một IPv6 Node, IPv4MA chỉ có tác dụng thông báo và không được dùng như Resource hoặc Destination Address

6to4 Address

Là địa chỉ sử dụng trong liên lạc giữa các IPv4/IPv6 nodes trong hệ thống hạ tầng IPv4 (IPv4 Routing Infrastructure). 6to4 được tạo bởi Prefix gồm 64 bits như sau :

Prefix = 2002/16 + 32 bits IPv4 Address =64 bits

6to4 Address là địa chỉ của Tunnel (Tulneling Address) định nghĩa bởi RFC 3056

5-Các loại IPv6 – Multicast Address

Multicast Address của IPv6 Node có họat động tương tự Maulticast trong IPv4. Một IPv6 Node có thể tiếp nhận tín hiệu của nhiều Multicast Address cùng lúc. IPv6 Node có thể tham gia hoặc rời khỏi một IPv6 Multicast Address bất kỳ lúc nào

Ví dụ về một số IPv65 Multicast Address được sử dụng :

FF01::1 (interface-local scope all-nodes multicast address)

FF02::1 (link-local scope all-nodes multicast address)

FF01::2 (interface-local scope all-routers multicast address)

FF02::2 (link-local scope all-routers multicast address)

FF05::2 (site-local scope all-routers multicast address)

Solicited-Node Address (SNA)

Là địa chỉ sủ dụng trong quy trình phân giải để cấp địa chỉ LLA (Link-Local Address) tự động cho các Node (tương tự quy trình tự cấp địa chỉ 169.254.X.X trong IPv4)

SNA có dạng : FF02:0:0:0:0:1:FF / 104 + 24 bits địa chỉ MAC

6-Các loại IPv6 – Anycast Address

Anycast Address có thể gán cho nhiều Interfaces, gói tin chuyển đến Anycast Address sẻ được vận chuyển bởi hệ thống Routing đến Interface gần nhất. Hiện nay, Anycast Address chỉ được dùng như Destination Address và gán cho các Router

IPv6 – Interface ID

Trong tất cả các loại địa chỉ nói trên đều có giá trị Interface ID dùng để xác định Interface. Giá trị Interface ID được xem xét và tạo nên theo các yếu tố sau :

– Xác định bởi Extended Unique Identifier (EUI)-64 Address (*) . EUI-64 Address có thể do gán hoặc kết hợp với MAC (physical) Address của Network Adapter (Window XP / Windows 2k3)

– Được gán tạm thời với giá trị ngẫu nhiên (**) (RFC 3041)

– Được tạo thành bởi Link-layer address hoặc Serial Number khi cấu hình Point-to-Point Protocol (PPP)

– Tự cấp (manual address configuration)

– Là một giá trị phát sinh ngẫu nhiên và gán thường trực cho Interface (Windows Vista / LogHorn)

Extended Unique Identifier (EUI)-64 Address (*)

EUI-64 Address xác định phưong thức tạo 64 bits Interface ID bằng cách kết hợp Mac Address của Network Adapter (48 bits) theo quy tắc như sau :

clip_image014

Mac Address = 6 nhóm 8 bits = 48 bits. Trong đó 24 bits là mã nhà sản xuất, 24 bits là mã số Adapter

Bước 1 : Tách đôi MAC Address làm 2 nhóm (mổi nhóm 24 bits), chèn vào giữa 16 bits giá trị FFFE

Bước 2 : Đảo ngược giá trị bit thứ 7 của nhóm đầu

Ví dụ : Network Adapter có MAC address = 00-AA-00-3F-2A-1C

Bước 1 à 00-AA-00-FF:FE-3F-2A-1C

Bước 2 à 02-AA-00-FF-FE-3F-2A-1C à Interface ID = 02AA:00FF:FE3F:2A1C (64 bits)

TRIỂN KHAI ISA FIREWALL CHO HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP – PHẦN 3: VPN CLIENT TO GATEWAY

VPN (Virtual Private Network) là giải pháp hữu hiệu để kết nối các hệ thống mạng của doanh nghiệp có nhiều chi nhánh và nằm khác vị trí địa lý hoặc doanh nghiệp của bạn có nhiều nhân viên phải thường xuyên đi công tác xa và họ muốn truy cập vào tài nguyên mạng nội bộ. Để đáp ứng các nhu cầu trên,trong phần 3 này tôi sẽ trình bày cách cấu hình VPN Client to Gateway thông qua ISA Server 2006

Mo_hinh_ISA

Bài lab bao gồm các bước:

1. Cấu hình VPN Client to Gateway trên máy ISA Server

2. Tạo access rule cho phép kết nối VPN


3. Cấu hình NAT Inbout trên Router ADSL


4. Kiểm tra kết nối VPN

Nội dung bài LAB

FOREVER

Download : http://cid-aff6754ac8fede08.skydrive.live.com/self.aspx/Music/Forever.swf

Quá khứ đã là quá khứ làm sao quá khứ có thể quay lại khi thời gian đã trôi qua… Có còn lại chăng đi nữa chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa ,ngày mà tôi còn vô tư với tuổi thơ của mình…Tôi nghe bài này đã lâu lắm rồi nhưng không nghĩ nó lại là một bản Ballad hay đến thế, cứ như là giấc mơ. Đêm nay sao tôi nhớ về ngày xưa quá..

"I stand alone in the darkness
the winter of my life came so fast
memories go back to my childhood
to days I still recall
Oh how happy I was then
there was no sorrow there was no pain
walking through the green fields
sunshine in my eyes"

(Tôi đứng giữa bóng tối của mùa đông cô đơn lạnh lẽo..tôi là những bức tranh của kí ức ngày xưa trở về tới thời thơ ấu của tôi…và mãi sẽ vẫn còn gọi về..)
(Ôi việc tôi đã hoàn thành ở đó đã hạnh phúc như thế nào..không có nỗi đau đớn nào khi ở đó ..Không có 1 chút nỗi đau nào khi đi qua cánh đồng nắng chang chang và xanh ngát trong đôi mắt của tôi…)

Tôi vẫn đứng đây và chờ… Cho dù bây giờ không có em..Tôi ước gì mình chỉ là hạt cát nhỏ kia để được bên em..Tôi ước gì mình là ngôi sao sáng trên bâu trời kia để được nhìn thấy em…..Dù cho đi đến đâu,dù ở đó tôi có hạnh phúc bao nhiêu đi nữa cũng không thể bằng khi ngày xưa,và tôi chẳng thể ở lại đó….tôi chỉ muốn về đây ..Về trở lại những ngày xưa đó..Tôi chỉ là cơn gió thoáng qua mái tóc của em… Chỉ khẽ rung chiếc lá ngày xưa mà chúng ta đã từng cầm ..Và em có còn chờ tôi mãi mãi…?

"I”m still there everywhere
I”m the dust in the wind
I”m the star in the northern sky
I never stayed anywhere
I”m the wind in the trees
would you wait for me forever "
(Tôi còn là ở đó khắp nơi..
Tôi còn là bụi trong những cơn gió
Tôi là ngôi sao trong bầu trơi bắc
Tôi không bao giờ ở lại bất cứ nơi đâu
Tôi là cơn gió đi qua những cây kia
Bạn sẽ đợi tôi mãi mãi? )

Bài hát khi lắng nghe đã thấy buồn..Nhưng khi cầm lời dịch của bài hát trong tay tôi mới hiểu vì sao mà bài hát buồn như thế..Đó có phải là kí ức về tuổi thơ ,về mối tình đầu…Hãy giữ mãi mãi trong tim cho dù ngày mai có ra sao đi nữa, tôi vẫn nhớ mãi mãi…

forever

Forever
(Stratovarius)

I stand alone in the darkness
the winter of my life came so fast
memories go back to childhood
to days I still recall
Oh how happy I was then
there was no sorrow there was no pain
walking through the green fields
sunshine in my eyes
Im still there everywhere
Im the dust in the wind
Im the star in the northern sky
I never stayed anywhere
Im the wind in the trees
would you wait for me forever ?

forever_mine

Mãi mãi

Tôi đứng một mình trong bóng tối
Tuổi già mới đến nhanh làm sao
Khi nghĩ về thưở ấu thơ
Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ
Khi đó mới hạnh phúc biết bao
Ko có những fiền muộn hay nỗi đau
Đi ngang qua những cánh đồng xanh
Ánh mặt trời lấp lánh trong mắt
Tôi vấn sẽ đi khắp mọi nơi
Tôi như hạt bụi trong gió
Tôi như ngôi sao trên bầu trời fương bắc
Tôi sẽ ko bao giờ dừng chân
Và tôi như ngọn gió lướt qua thật nhanh
Em sẽ mãi đợi tôi ko??